BERND ALOIS ZIMMERMANN (ĐỨC, 1918-1970)

Bernd Alois Zimmermann

Nhà soạn nhạc người Đức Bernd Alois Zimmermann (1918-1970) là một trong số ít nhạc sĩ duy trì độc lập với các học thuyết âm nhạc thế kỷ 20 và thiết lập một phong cách riêng.

Bernd Alois Zimmermann sinh ở Bliesheim, gần Cologne, ngay khi thế chiến I kết thúc.

Giáo dục Catholic của ông bị gián đoạn khi ông nhập ngũ vào quân đội Đức trong Thế chiến II. Trong một lá thư cá nhân chưa được xuất bản, ông tuyên bố rằng ông chưa bao giờ thực sự thải một vũ khí vào người khác trong suốt thời ông là một người lính. Bị thương sớm trong chiến tranh, ông đã có thể tiếp tục sự học hành của mình vào năm 1942.

 

Ở Darmstadt, năm 1949-1950, ông từ bỏ một luận văn  âm nhạc về việc sử dụng fugue trong nhạc hiện đại để theo đuổi sự nghiệp như một nhà soạn nhạc.

Giáo dục Công giáo và đức tin Kitô giáo của Zimmermann có ảnh hưởng trong các sáng tác của ông. Giống như thánh Augustinô, Zimmermann tin tưởng vào sự đồng thời của quá khứ, hiện tại và tương lai như là một khoảnh khắc vĩnh cửu trong tâm trí của Thiên Chúa. Do đó, ông đã phát triển một kỹ thuật trích dẫn các bậc thầy trong các sáng tác hiện đại của ông: những tác phẩm được yêu thích của ông bao gồm Bach, Mozart, và Debussy. Các phương pháp trích dẫn của Zimmermann phát triển thành một hình thức cắt dán, một kỹ thuật được sử dụng trong nghệ thuật thị giác, theo đó một nhóm các hình ảnh và vật thể dường như ngẫu nhiên được kết hợp. Zimmermann kết hợp các yếu tố từ các giai đoạn khác nhau trong lịch sử âm nhạc và từ các nền văn hoá âm nhạc khác nhau và làm cho chúng trở thành một phần của các sáng tác âm nhạc thống nhất của riêng ông.

Các tác phẩm của Zimmermann  rất độc đáo. Ông đã đồng hóa âm nhạc của quá khứ và không phải châu Âu với âm nhạc châu Âu. Ví dụ như trong Stille und Umkehr (1970) chỉ có bốn hoặc năm nhạc cụ trong một ban nhạc 42 thành viên cùng chơi đồng thời.

Mặc dù đức tin và kỷ luật tôn giáo ảnh hưởng nhiều đối với Zimmermann, song ông vẫn viết nhạc thể hiện sự bất hạnh cuộc sống một cách sâu sắc. Quan điểm về những cuộc chiến tranh thế giới, đặc trưng của thời đại ông, được phản ánh trong opera Die Soldaten của ông, thường được coi là công việc quan trọng nhất của âm nhạc Đức trong thể loại đó kể từ  Alban Berg.

Zimmermann sáng tác Requiem für einen jungen Dichter, tổng hợp lại lịch sử châu Âu trong suốt cuộc đời của ông, kết hợp các đoạn trích từ các bài phát biểu chính trị và các bài viết của các nhà thơ đã tự sát.

Chính Zimmermann đã tự sát ở Königsberg vào năm 1970.

Works

  • Extemporale for piano (1946)
  • Capriccio for Piano
  • Lob der Torheit (burlesque cantata by Johann Wolfgang von Goethe), for solo, choir and large orchestra (1947)
  • Enchiridion I for piano (1949)
  • Märchensuite for orchestra (1950)
  • Alagoana (Caprichos Brasileiros) Ballet Suite (1950)
  • Rheinische Kirmestänze (1950, rearranged in 1962 for 13 wind instruments)
  • Concert for Violin and orchestra (1950)
  • Sonata for solo violin (1951)
  • Symphony in one movement (1951, revised 1953)
  • Enchiridion II for piano (1951)
  • Concerto for oboe and chamber orchestra (1952)
  • Des Menschen Unterhaltsprozeß gegen Gott (lit. The People’s Maintenance Suit Against God) Radio opera in three acts with text from Pedro Calderón de la Barca and adapted by Matthias Bungart.
  • Nobody knows the trouble I see Concert for trumpet and chamber orchestra (1954)
  • Sonata for Viola solo (1955)
  • Konfigurationen (Configurations) for piano (1956)
  • Perspektiven — Musik für ein imaginäres Ballet (Perspectives — Music for an imaginary ballet.) for 2 pianos (1956)
  • « Die fromme Helene » after Wilhelm Busch sounded as a « Rondo popolare » for narrator and *instrumental ensemble (1957)
  • Canto di speranza Cantata for cello and small orchestra (1957)
  • Omnia tempus habent Cantata for soprano and 17 instruments (1957)
  • Impromptu for orchestra (1958)
  • Dialoge Concerto for two pianos and orchestra (1960)
    • Re-written with the title Monologue for two pianos (1964)
  • Sonata for solo cello (1960)
  • Présence, ballet blanc for piano trio and narrator (with words from Paul Pörtner) (1961)
  • Antiphonen for viola and 25 instrumentalists (1961)
  • Tempus Loquendi for solo flute (1963)
  • Musique pour les soupers du Roi Ubu (Ballet noir en sept parties et une entrée) Ballet after « Ubu Roi » by Alfred Jarry (1966)
  • Die Soldaten Opera in four acts, libretto by the composer after the drama of the same name by Jakob Michael Reinhold Lenz (1965)
  • Concerto for Cello and Orchestra en forme de pas de trois (1966), dedicated to Siegfried Palm
  • Tratto Electronic composition (1967)
  • Intercomunicazione for cello and piano (1967)
  • Die Befristeten for jazz quintet (1967)
  • Photoptosis Prelude for large orchestra (1968)
  • Requiem für einen jungen Dichter — Lingual for narrator, soprano, baritone, three choirs, electric tape, orchestra, jazz combo and organ (1969)
  • Vier kurze Studien for solo cello (1970)
  • Stille und Umkehr orchestra sketches (1970)
  • Tratto 2 Electronic composition (1970)
  • Ich wandte mich um und sah alles Unrecht das geschah unter der Sonne — Ekklesiastische Aktion for two narrators, bass and orchestra (1970)
  • Plus various compositions for radio, theater and film