Olivier Messiaen học nhạc tại Nhạc viện Paris trong khoảng thời gian 1919–1930. Ông học lớp sáng tác với các thầy Dukas, Caussade. Thời trẻ, Messiaen nghiên cứu những tiết nhịp âm nhạc Ấn Độ, Hy Lạp và nhạc dân gian. Từ năm 1931, ông là nghệ sĩ đàn organ của Nhà thờ La Trinité, Paris ( trong hơn 40 năm ròng). Trong thế chiến 2, ông bị phát xít Đức bắt giam 2 năm, sau đó về làm giáo viên tại Nhạc viện Paris (ông dạy các môn hòa thanh, phân tích tác phẩm từ năm 1947, môn sáng tác từ năm 1966). Ông có nhiều học trò xuất sắc như Boulez, Stockhausen, Barraqué, Xenakis, Amy, Sherlaw Johnson và Goehr.
Ngay từ đầu Messiaen đã chịu ảnh hưởng của Debussy và Gluck. Đặc biệt là khi đọc các tổng phổ Pelleas et Mellasande, Prelude à l’apres-Midi d’un Faune, Orfeo mà thầy giáo hòa âm Jean Gallon đưa cho, ông đã rất kính phục tài năng của hai nhà soạn nhạc này. Tình yêu âm nhạc của Messiaen bộc lộ rất sớm và ông đã ý thức được định mệnh của mình là trở thành một nhà soạn nhạc.
Quartet for the End of Time có lẽ là tác phẩm đầu tiên của Messiaen, trong đó sự tương phản giữa các movement thực sự trở nên cực đoan: có một sự mãnh liệt mới trong âm nhạc. Thật không khó để tưởng tượng tại sao điều này có thể xảy ra, với nguồn gốc nổi tiếng của tác phẩm, được viết ra trong khi Messiaen là một tù nhân chiến tranh tại trại Stalag VIII-A của Đức quốc xã. Cuộc đấu tranh để không chỉ chịu đựng những điều kiện khủng khiếp, mà còn để kết hợp kinh nghiệm vào đức tin của mình, phải có được sâu sắc.
Một trong những cách tân trong kỹ thuật sáng tác là phát triển ngôn ngữ 12 âm lên một tầm mới, nhiều người gọi đó là « Total serialism » và nhiều học trò của ông sau này vẫn tiếp tục theo đuổi như Pierre Boulez và Karlheinz Stockhausen. Nhưng bản thân Messiaen thấy sự hạn chế của ngôn ngữ 12 âm nên sau này ông thường kết hợp thêm cả âm nhạc chủ điệu và ông thường nói “âm nhạc phải làm người nghe rung động mới quan trọng”. Một trong những sáng tác có sự kết hợp này là Turangalîla Symphonie, tác phẩm được viết từ năm 1946 đến 1948 theo yêu cầu của Serge Koussevitzky để tặng Boston Symphony Orchestra. Tác phẩm này được biểu diễn lần đầu tại Chicago vào năm 1949 do Leonard Bernstein chỉ huy và ngày nay nó được coi là một trong những tác phẩm viết cho dàn nhạc tiêu biểu của thế kỷ 20.Giống như rất nhiều âm nhạc của ông, nhạc kịch về cuộc đời của thánh Phanxicô, Saint Francois d’Assise. được truyền cảm hứng từ niềm tin tôn giáo của Messiaen. Ông là một người Công giáo mộ đạo và từng chơi organ mỗi tuần tại nhà thờ ở Paris. Có một cái gì đó vô cùng đam mê và trực tiếp về cách ông viết.
Âm thanh tự nhiên đóng một vai trò quan trọng trong âm nhạc của Messiaen và ông luôn coi thiên nhiên là người thầy vĩ đại. Qua khảo sát âm thanh của các loài chim, ông thu lượm được nhiều nét giai diệu, tiết tấu cũng như âm sắc độc đáo. Tác phẩm điển hình dựa vào âm thanh của loài chim : Le merle noir viết năm 1952 cho flute và piano, và các tác phẩm sau đó : Catalogue d’oiseaux (1958) , La fauvette des jardins (1971), Quatuor pour la fin du temps …
Đóng góp lớn nhất về kỹ thuật sáng tác của Messiaen có lẽ là sự phong phú trong sử dụng tiết tấu. Theo ông các sự vật hay hiện tượng trong cuộc sống không diễn ra một cách đều đặn, chính vì vậy ông sử dụng rất nhiều âm hình tiết tấu độc đáo, polyrhythm (các bè với tiết tấu khác nhau), added rhythm, non- retrogradable rhythm (hay còn gọi là tiết tấu đối xứng) và cách phân chia ô nhịp không còn quá quan trọng (ametrical music) đòi hỏi trình độ biểu diễn rất cao về khả năng cảm thụ nhịp phách cũng như ứng tác. Hơn nữa, cùng với cách thức chuyển dịch hạn chế (“modes of limited transposition” – các nốt trong thang âm sắp xếp theo một trật tự mà khi chuyển dịch một số lần hạn chế nó sẽ trở về nguyên trạng thái ban đầu) khiến âm nhạc của Olivier Messiaen trở nên độc dáo riêng biệt.
Không thể không nói về Yvonne Loriod, người vợ thứ hai của Messiaen, một nghệ sĩ piano kiệt xuất. Yvonne Loriod học piano từ năm lên 6 tuổi với mẹ và khi 14 tuổi cô đã chơi thuộc lòng tất cả các piano concerto của Mozart (Yvonne sau này còn lập kỷ lục khi chơi 22 piano concerto của Mozart trong một tuần cùng với Lamoureux Orchestra), 32 piano sonata của Beethoven, 48 Prelude and fugue của Bach cũng như các tác phẩm chuẩn mực của các nhà soạn nhạc khác. Yvonne là người thể hiện hầu như tất cả những sáng tác cho piano của Messiaen với một sự hoàn hảo trong kỹ thuật cũng như sự đồng cảm tuyệt vời. Các tác phẩm viết cho piano hầu như Messiaen đều để tặng bà.
Cuối đời ông định viết bản concerto cho bốn đàn để tặng các nghệ sĩ biểu diễn mà ông ngưỡng mộ, nhưng không kịp hoàn thành (chương cuối của bản concerto được người vợ và một học trò của ông tại nhạc viện Paris là George Benjamin hoàn thành).
CÁC TÁC PHẨM OLIVER MESSIAEN:
Published during his lifetime
- Le banquet céleste, organ (1928, a recomposition of a section from his unpublished orchestral pieceLe banquet eucharistique[1])
- Préludes, piano (1928–29)
- Diptyque, organ (1930)
- La mort du nombre(« Number’s death »), soprano, tenor, violin and piano (1930)
- Les Offrandes oubliées(fr) (« The Forgotten Offerings »), orchestra (1930)
- Trois mélodies, song cycle (1930)
- Le tombeau resplendissant, orchestra (1931)
- Apparition de l’église éternelle(« Apparition of the eternal church »), organ (1932)
- Fantaisie burlesque, piano (1932)
- Hymne au Saint-Sacrement(fr) (« Hymn to the Holy Sacrament »), orchestra (1932, lost 1943, reconstructed from memory 1946[2])
- Thème et variations, violin and piano (1932)
- L’ascension(« The Ascension »), orchestra (1932–33; organ version including replacement movement, 1933–34)
- La Nativité du Seigneur(« The Lord’s nativity »), organ (1935)
- Pièce pour le tombeau de Paul Dukas, piano, (1935)
- Vocalise, voice and piano (1935)
- Poèmes pour Mi(fr), song cycle (1936, orchestral version 1937)
- O sacrum convivium!, choral motet (1937)
- Chants de Terre et de Ciel(fr) (« Songs of Earth and Heaven »), song cycle (1938)
- Les Corps glorieux(fr) (« Glorious Bodies »), organ (1939)
- Quatuor pour la fin du temps(« Quartet for the end of time »), violin, cello, clarinet, piano (1940–41)
- Rondeau, piano (1943)
- Visions de l’Amen(« Visions of the Amen »), two pianos (1943)
- Trois petites Liturgies de la Présence Divine(« Three small liturgies of the Divine Presence »), women’s voices, piano solo, ondes Martenot solo, orchestra (1943–44)
- Vingt regards sur l’enfant-Jésus(« Twenty gazes on the Christ-child »), piano (1944)
- Harawi: Chants d’amour et de mort, (« Harawi: Songs of love and death ») song cycle (1944)
- Turangalîla-Symphonie, piano solo, ondes Martenot solo, orchestra (1946–48)
- Cinq rechants(fr), 12 singers (1948)
- Cantéyodjayâ, piano (1949)
- Messe de la Pentecôte(« Pentecost mass »), organ (1949–50)
- Quatre études de rythme(« Four studies in rhythm »), piano (1949–50)
- Île de feu 1
- Mode de valeurs et d’intensités
- Neumes rhythmiques
- Île de feu 2
- Le merle noir(« Blackbird »), flute and piano (1952[3])
- Livre d’orgue(fr), organ (1951–52)
- Réveil des oiseaux(fr) (« Dawn chorus »), solo piano and orchestra (1953)
- Oiseaux exotiques(fr) (« Exotic birds »), solo piano and orchestra (1955–56)
- Catalogue d’oiseaux(fr) (« Bird catalogue »), piano (1956–58)
- Book 1
- iLe chocard des alpes (« Alpine chough« )
- iiLe loriot (« Golden oriole« ) (loriot and Loriod are homophones)
- iiiLe merle bleu (« Blue rock thrush« )
- Book 2
- ivLe traquet stapazin (« Black-eared wheatear« )
- Book 3
- Book 4
- viiLa rousserolle effarvatte (« Reed warbler« )
- Book 5
- viiiL’alouette calandrelle (« Greater short-toed lark« )
- ixLa bouscarle (« Cetti’s warbler« )
- Book 6
- xLe merle de roche (« Rock thrush« )
- Book 7
- xiLa buse variable (« Buzzard« )
- xiiLe traquet rieur (« Black wheatear« )
- xiiiLe courlis cendré (« Curlew« )
- Chronochromie(« Time-colour »), orchestra (1959–60)
- Verset pour la fête de la dédicace, organ (1960)
- Sept haïkaï(fr) (« Seven haikus« ), solo piano and orchestra (1962)
- Couleurs de la Cité céleste(fr) (« Colours of the Celestial City »), solo piano and ensemble (1963)
- Et exspecto resurrectionem mortuorum(« And I await the resurrection of the dead »), wind, brass and percussion (1964)
- La Transfiguration de Notre Seigneur Jésus-Christ(« The Transfiguration of Our Lord Jesus Christ »), large 10-part chorus, piano solo, cello solo, flute solo, clarinet solo, xylorimba solo, vibraphone solo, large orchestra (1965–69)
- Méditations sur le Mystère de la Sainte Trinité(fr) (« Meditations on the Mystery of the Holy Trinity »), organ (1969)
- La fauvette des jardins(« Garden warbler« ), piano (1970)
- Des Canyons aux étoiles…(« From the canyons to the stars… »), solo piano, solo horn, solo glockenspiel, solo xylorimba, small orchestra with 13 string players (1971–74)
- Saint-François d’Assise(« St. Francis of Assisi »), opera (1975–83)
- Le Livre du Saint-Sacrement(fr) (« Book of the Holy Sacrament »), organ (1984)
- Petites esquisses d’oiseaux(fr) (« Small sketches of birds »), piano (1985)
- Un vitrail et des oiseaux(fr) (« Stained-glass window and birds »), piano solo, brass, wind and percussion (1986)
- La ville d’En-haut(« The city on high »), piano solo, brass, wind and percussion (1987)
- Un sourire(« A smile »), orchestra (1989)
- Concert à quatre(« Quadruple concerto »), piano, flute, oboe, cello and orchestra (1990–91, unfinished – completed by Loriod and Benjamin)
- Pièce pour piano et quatuor à cordes(« Piece for piano and string quartet ») (1991)
- Eclairs sur l’au-delà(« Flashes on the beyond »), orchestra (1988–92)
- Book 1
Published posthumousl
A number of works exist which were not published in Messiaen’s lifetime, including the following, some of which have been published posthumously, and some of which are lost.
- La dame de Shalott, for piano (1917)
- La banquet eucharistique, for orchestra (1928)
- Variations écossaises, for organ (1928)
- Fantaisie, for violin and piano (1933, published 2007 – seethis note on errors in the score)
- Mass, 8 sopranos and 4 violins (1933)
- Fête des belles eaux, for six ondes Martenots (1937)
- Musique de scène pour un Œdipe, electronic (1942)
- Chant des déportés, chorus and orchestra (1946)
- Timbres-durées, musique concrète (1952), realised by Pierre Henry in the radiophonic workshop ofFrench radio, an experiment which Messiaen later deemed a failure[4]
- Feuillets inedits, for piano and ondes Martenot (unknown, published in 2001)