JONATHAN HARVEY (ANH, 1939-2012)

Composer Jonathan Harvey

Không phải mọi nhà soạn nhạc mà âm nhạc của họ đảm bảo việc nâng cao và làm bạn sống lại, điều khiến bạn cảm thấy có cảm giác thiết thực về thế giới và không gian sống của bạn. Nhà soạn nhạc người Anh Jonathan Harvey thuộc thể loại đặc biệt đó, và không phải ông tạo ra một cảm giác nhẹ nhàng về sự thoát khỏi âm nhạc mà bằng đương đầu, trải nghiệm, và bằng thứ thế giới và sự dằng xé của nó, niềm vui và nỗi thống khổ.

Một trong những mảnh âm nhạc điện tử  nổi tiếng của Harvey, Mortuos Plango, Vivos Voco (« Tôi than khóc cái chết, tôi kêu gọi sự sống »). Đó là âm nhạc bằng âm thanh điện tử ghi lại âm thanh của chiếc chuông lớn nhất của nhà thờ Winchester, được sáng tác tại IRCAM của Pierre Boulez ở Paris vào năm 1980. Nó kết tinh một số thành tựu cơ bản của âm nhạc mà Harvey đã viết trong nửa thế kỷ: sử dụng công nghệ, sự kết hợp giữa âm thanh và âm thanh điện tử, mong muốn làm ra thứ âm nhạc ở ranh giới của ý thức và kiến thức về tồn tại, sử dụng sức mạnh  âm nhạc để khám phá tinh thần. Việc biên soạn Mortuos Plango cũng nói lên điều gì đó về  chủ nghĩa quốc tế của âm nhạc Harvey, và thực tế là chúng ta vẫn cần phải nghe nhiều hơn nữa  về chúng.

Nhiều văn bản âm nhạc của Harvey là sự khám phá lĩnh vực tâm linh được cảm hứng từ Phật giáo. Với ý tưởng này là điều nguy hiểm hiển nhiên. Một nhà soạn nhạc nhỏ có thể dễ dàng khao khát về điều kiện của sự siêu nghiệm thiền định mà chỉ tạo ra một âm nhạc không phải là độc nhất. Nhưng âm nhạc Harvey thì không chống nổi sự cám dỗ đó. Có suy nghĩ về một opera dài, Wagner Dream. Đây là tác phẩm kết hợp hai ảnh hưởng và niềm đam mê lâu dài nhất của Harvey, lời dạy của đức Phật và chủ nghĩa lãng mạn cuối cùng của thế giới, gợi dục, ám ảnh chết người, của Wagner. Trên bề mặt của nó, bạn sẽ khó bị thúc ép để nghĩ đến hai hiện tượng đối lập cơ bản nữa: một mặt là bài học về ý thức vô ngã, mặt khác có lẽ là sự khuếch đại cái tôi ám ảnh nhất của thứ bản ngã cá nhân trong  sáng tạo phương Tây (It’s a piece that puts together two of Harvey’s most abiding influences and passions, the teachings of the Buddha and the worldly, sensual, death-haunted late-romanticism of Wagner. On the face of it, you’d be hard-pressed to think of two more essentially opposed phenomena: on one hand, the lesson of mindful egolessness, on the other, maybe the most self-obsessed amplification of an individual ego in Western creativity). Nhưng Wagner đã thực sự nghĩ đến một vở opera về cuộc đời của Đức Phật vào lúc ông mất vào năm 1883, tác phẩm của Harvey là cả một cái nhìn tưởng tượng về những gì mà âm nhạc đó có thể thực hiện và một cuộc đối đầu đầy kịch tính giữa sự ích kỷ tột bực (egomania) của Wagner và huyền thoại Phật giáo về tình yêu  vĩnh hằng (Prakriti) của nhà tu Ananda. Những gì ông nghe được trong âm nhạc của Wagner đã truyền cảm hứng cho ông như một nhạc sĩ trẻ đã gợi lên một lĩnh vực của cảm giác thuần khiết, có sự so sánh Phật giáo trong các trạng thái tăng cao nhận thức. Và chúng ta sẽ nghe thấy trong âm nhạc Harvey  sự hòa trộn rực rỡ giữa  phương Đông và phương Tây, vùng biên giới giữa ý thức và vô thức.

Bhakti , tác phẩm điện tử được viết  sớm nhất, năm 1982, dài 50 phút,  dành cho nhóm nhạc và electronic

Weltethos là một bài hát dài 80 phút cho dàn hợp xướng  và dàn nhạc

Messages, thông điệp, viết cho dàn hợp xướng và dàn bao gồm những câu thần chú và gợi tên các thiên thần Ba Tư và Do Thái.

Body Mandala, sự chuyển thể của sức mạnh nghi lễ của nhạc cụ bằng đồng của Tây Tạng cho dàn nhạc phương Tây.

…Towards A Pure Land…là một bài luận không thể cưỡng lại khác về cách mà dàn nhạc có thể đưa bạn vào cuộc hành trình đến một ý thức khác

Speakings,  những bài Nói, thậm chí còn sâu rộng hơn, một lần nữa, được sự giúp đỡ từ IRCAM, âm nhạc điện tử đã biến dàn nhạc thành những ca sĩ có tiềm năng, khám phá khu vực nơi âm thanh của dàn nhạc vượt khỏi biên giới của nhạc cụ.

 

Khám phá âm nhạc của Harvey là một trong những chuyến du hành đáng kể  nhất để chúng ta có thể lắng nghe âm nhạc đương đại

CÁC TÁC PHẨM:

  • Dialogue and Songfor cello and piano (1965/1977)
  • Four Images after Yeatsfor piano (1969)
  • Piano Trio (1971)
  • String Quartet No. 1 (1977)
  • O Jesu Nomen Dulcefor choir (1979)
  • Mortuos Plango, Vivos Voco, computer-manipulated concrete sounds (pre-recordedoctophonic tape), for tape (1980)
  • Mythic Figures(1980)
  • Bhaktifor 15 players and quadrophonic tape (1982)
  • Curve with Plateauxfor solo cello (1982)
  • Flight-Elegyfor violin and piano (1983–89)
  • Natarajafor flute, piccolo and piano (1983)
  • Nachtliedfor soprano, piano and tape (1984)
  • Come Holy Ghostfor choir (1984)
  • Ricercare una Melodiafor solo trumpet/cello/flute/oboe/trombone with tape delay system (1984)
  • Song Offeringsfor soprano and chamber ensemble of 8 players (1985)
  • Forms of Emptinessfor choir (1986)
  • God is our Refugefor choir and organ (1986)
  • Madonna of Winter and Springfor orchestra, synthesizer and electronics (1986)
  • Laudsfor choir and solo cello (1987)
  • From Silencefor soprano, 6 players and tape (1988)
  • String Quartet No. 2 (1988)
  • Three Sketchesfor solo cello (1989)
  • Ritual Melodiesfor quadrophonic tape (1989–90)
  • Cello Concerto (1990)
  • Fantasiafor organ (1991)
  • Serenade in Homage to Mozartfor wind ensemble of 10 players (1991)
  • Scenafor violin and chamber ensemble of 9 players (1992)
  • Lotusesfor flute quartet (1992)
  • You(1992)
  • Chantfor solo cello (or solo viola) (1992–94)
  • The Riotfor flute, piccolo, bass clarinet and piano (1993)
  • One Evening…for soprano, mezzo, soprano, chamber ensemble of 8 players, 2 technicians and electronics (1993–94)
  • The Angelsfor choir (1994)
  • Tombeau de Messiaenfor piano and tape (1994)
  • Advayafor cello, electronic keyboard and electronics (1994)
  • Dum Transisset Sabbatumfor choir (1995)
  • String Quartet No. 3 (1995)
  • Percussion Concerto (1997)
  • Sufi Dancefor solo guitar (1997)
  • Wheel of Emptinessfor chamber ensemble of 16 players (1997)
  • Ashes Dance Backfor choir and electronics (1997)
  • Death of Light/Light of Deathfor chamber ensemble of 5 players after Grunewald’s Crucifixion in the Isenheim Altarpiece (1998)
  • Tranquil Abidingfor chamber orchestra (1998)
  • Valley of Aostafor 13 players and electronics (1998)
  • Marahifor unaccompanied choir (1999)
  • The Summer Cloud’s Awakeningfor choir, flute, cello and electronics (2001)
  • Versfor piano (2000)
  • Jubilusfor viola and chamber ensemble (2003)
  • String Quartet No. 4 with live electronics (2003)
  • String Trio (2004)
  • Body Mandalafor orchestra (2006)
  • Wagner Dream, opera (2007)
  • Other Presencesfor trumpet and electronics (2008)
  • Imaginingsfor cello and live electronics
  • Philia’s Dreamfor cello and synthesizer
  • Weltethosfor speaker, choir, children’s chorus and orchestra (2011), commissioned by the Berliner Philharmoniker[8]